Nhạc phim The Last Emperor – Sự kết hợp không ai ngờ đến
Ngày nay, họ không còn làm ra những thước phim như The Last Emperor (tựa Việt: Hoàng Đế Cuối Cùng) nữa. Một bộ phim cổ trang xa hoa được đạo diễn bởi nhà làm phim vĩ đại người Ý Bernardo Bertolucci, với sự tham gia của các diễn viên Tôn Long, Trần Xung, Peter O’Toole… kể về câu chuyện cuộc đời của Phổ Nghi, vị vua cuối cùng của đời nhà Thanh...
Ngày nay, họ không còn làm ra những thước phim như The Last Emperor(tựa Việt: Hoàng Đế Cuối Cùng) nữa. Một bộ phim cổ trang xa hoa được đạo diễn bởi nhà làm phim vĩ đại người Ý Bernardo Bertolucci, với sự tham gia của các diễn viên Tôn Long, Trần Xung, Peter O’Toole… kể về câu chuyện cuộc đời của Phổ Nghi, vị vua cuối cùng của đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, trước khi Cách mạng Cộng hòa nổ ra vào năm 1911. Câu chuyện được lấy bối cảnh tại thời điểm khi Phổ Nghi đã trưởng thành, là một người tù chính trị của nhà lãnh tụ cộng sản Mao Trạch Đông và nhìn lại cuộc đời mình, bắt đầu từ lúc lên ngôi khi mới 3 tuổi vào năm 1908, tiếp tục tới nửa đầu cuộc đời mình khi ông lớn lên tại Cố Cung ở Bắc Kinh cho tới những biến động sau này dẫn tới việc ông bị truất ngôi, bị trục xuất và cuối cùng bị cầm tù. Đây là một kiệt tác hào hùng, vĩ đại về mặt hình ảnh, cân bằng giữa sự lộng lẫy và giàu có của hoàng cung với câu chuyện cá nhân của một người đàn ông cố gắng lèo lái cuộc đời mình với tư cách một hoàng đế bù nhìn, và cả cái cách ông cân bằng cuộc sống riêng tư với sự nghiệp chính trị và địa vị xã hội của bản thân. Bộ phim từng là một thành công lớn với giới phê bình vào năm 1987, từng đạt 9 giải Oscar bao gồm Phim Hay nhất, Đạo diễn Xuất sắc nhất và Kịch bản Chuyển thể Hay nhất, cùng với các giải thưởng về mặt kĩ thuật gồm có Thiết kế Sản xuất Xuất sắc nhất, Quay phim Xuất sắc nhất, Dựng phim Xuất sắc nhất, Thiết kế Trang phục Đẹp nhất và Nhạc phim Hay nhất.
Phần nhạc phim của The Last Emperor được tạo ra bởi sự kết hợp không ai ngờ đến nhất của bộ ba nhà soạn nhạc: Sakamoto Ryuichi, David Byrne và Tô Thông. Sakamoto là một nhạc sĩ nổi tiếng của dòng nhạc pop tại quê nhà Nhật Bản. Trước đó 3-4 năm, ông từng có tác phẩm nhạc phim đầu tay nhưng phải đến năm 1983, tên tuổi của ông mới được quốc tế biết đến nhờ sáng tác nhạc phim cho Merry Christmas Mr. Lawrence, bộ phim mà ông cũng xuất hiện trong vai nam phụ cùng với David Bowie. Byrne là một ca sĩ kì dị, khác thường của ban nhạc rock phong cách hậu punk tên Talking Heads. Ông trước đó đã đạt được kha khá thành công trên các bản xếp hạng âm nhạc với những ca khúc như Once in a Lifetime vào năm 1981, Burning Down the House năm 1983 và Road to Nowhere năm 1985, nhưng cho đến khi đó không ai biết ông có thể viết nhạc orchestra cho phim. Trong khi đó, Tô Thông lại là một người hoàn toàn vô danh, một chuyên gia nhạc cổ điển của Trung Quốc vừa hoạt động như một nhà soạn nhạc vừa làm giáo viên dạy nhạc ở Bắc Kinh và Đức, nhưng trước đó tuyệt nhiên ông chưa từng có một tác phẩm nhạc phim nào. Việc Bertolucci làm thế nào để đưa ba con người hoàn toàn khác biệt này đến với nhau để cùng soạn ra phần nhạc phim cho The Last Emperor là một bí ẩn, nhưng bằng một cách thần kì nào đó, mọi việc đã diễn ra suôn sẻ; phần nhạc phim mang đậm dấu ấn âm nhạc truyền thống của Đế quốc Trung Hoa, xen lẫn trong đó là một vài yếu tố đương đại.
Đóng góp của Sakamoto cho phần nhạc phim gồm có chín bài tập trung xoay quanh chủ đề chính, một giai điệu đẹp, trữ tình cho cả dàn nhạc, phần cao trào thường được truyền tải bằng tiếng đàn nhị hoặc đàn tranh. Đây là một chủ đề nhẹ nhàng, có chút buồn man mác, có chút nội tâm, nhưng dần dần sôi động lên ở nửa sau nhờ tiếng kèn đồng mạnh mẽ. Hai biến thể của chủ đề cho ta thấy những cách tiếp cận khác nhau với giai điệu; “Biến thể 1” có âm sắc truyền đạo, với sự hòa tấu của đàn tranh và dàn hợp xướng, trong khi đó “Biến thể 2” lại trừu tượng hơn, sở hữu sự kết hợp đặc sắc, nổi bật với Fairlight nhưng vẫn giữ nguyên bản chất thực nghiệm của Sakamoto. Có một điều thú vị không thể bỏ qua đó là một trong những nhà sản xuất và cải biên cho phần âm nhạc của Sakamoto trong album này không phải ai khác mà chính là Hans Zimmer, khi đó vẫn còn là cậu trợ lý 29 tuổi của nhà soạn nhạc Stanley Myers, người một năm sau đó đã viết ra Rain Man.
Những bài khác trong phần đóng góp của Sakamoto có xu hướng đem đến một bức tranh nhỏ về cuộc sống của Phổ Nghi khi làm con rối trong Cố Cung, giúp truyền tải sự lãng mạn cũng như nét uy nghiêm của nơi đây và cả sự tò mò của cậu bé dành cho những điều kì lạ đang xảy ra xung quanh mình. First Coronation là một bản giao hưởng li kì với phần biểu diễn đàn tì bà đặc sắc. Open the Door mang âm điệu lạnh lẽo và bi thương hơn, với những nốt nhạc kịch liệt giúp khán giả cảm nhận rõ sự bất ngờ và kinh hoảng của bé Phổ Nghi khi đứng trước cái chết của cha. Where is Armo? thì ấm áp hơn, với những nốt nhạc đậm sắc cổ điển và phần âm thanh cởi mở. Picking Up Bridges là ca khúc mang âm hưởng cổ đại và đầy gợi mở. Trong khi đó, Rain (I Want a Divorce) kế tục những hòa âm mà Biến thể 2 đem đến cho các ca khúc. The Baby (Was Born Dead) u ám hơn, với phần đàn tì bà và solo piano tạo ra không khí ảm đạm.
Đóng góp của Byrne cho phần nhạc phim gồm có 5 bài, nhưng bài đầu tiên Main Title Theme (The Last Emperor) thực ra lại là nhân tố dễ nhận nhất trong cả album, lí do là bởi bài này được phát ngay trong cảnh mở đầu phim, và được phát làm nhạc nền khi ba nhà soạn nhạc tài ba lên bục nhận giải Oscar từ Patrick Swayze và Jennifer Grey ở Giải thưởng Viện hàn lâm năm 1987. Ca khúc nhạc chủ đề được kết hợp từ một loạt những nhạc cụ truyền thống của Trung Hoa, với phần điệp khúc được thể hiện bằng đàn nhị. Đây là một ca khúc mang đậm chất truyền thống, cổ điển của Trung Hoa, nhưng bản thân nó lại có thể truyền đạt thông điệp tình cảm vô cùng mạnh mẽ giúp kết nối với cả những người phương Tây.
Những bài khác của Byrne hiển nhiên là không xuất sắc bằng ca khúc chủ đề, nhưng không vì thế mà chúng bớt hiệu quả hơn. Điều thú vị là Byrne phụ thuộc vào nhạc cổ điển của Trung Quốc còn nhiều hơn cả Sakamoto, đây là một điều đáng kinh ngạc bởi Byrne sinh ra ở Scotland và lớn lên ở Maryland. Picking a Bride là một ca khúc tinh nghịch, nhịp nhàng, sử dụng đa dạng các loại nhạc cụ truyền thống, đáng chú ý nhất là một phần nhỏ được thể hiện bởi các nhạc cụ làm bằng gỗ, nghe như tiếng đàn xếp phiên bản Trung Quốc vậy. Bed thì trừu tượng hơn, với nhiều âm thanh kim loại mạnh mẽ trên nền âm ngân vang và cuối cùng là tiếng sáo đầy thanh lịch. Wind, Rain and Water một lần nữa đem đến tiếng đàn xếp và có không khí khá vui vẻ trong khi Paper Emperor lại sử dụng nhiều sự kết hợp đến từ Phương Tây hơn với những tiếng kèn đồng và kèn ô-boa mang chút hơi hướng nhạc jazz để truyền đạt sự cay đắng và chán nản.
Đóng góp của Tô Thông cho album nhạc phim này chỉ có đúng một bài là Lunch, nhưng thực ra rất nhiều phần nhạc trong phim đều là của ông. Tô là người chịu trách nhiệm viết toàn bộ các đoạn nhạc cổ Trung Quốc mà khán giả có thể nghe thấy bên trong và xung quanh Cố Cung khi Phổ Nghi còn bé. Đa số nghe đều tương tự như Lunch, đều nhẹ nhàng, yên bình, gần gũi với rất nhiều nhạc cụ dân gian của Trung Quốc, bao gồm sáo dizi, đàn tì bà, đàn tranh, một số nhạc cụ kim loại và đàn nhị. Ngoài ra còn có hai bản nhạc truyền thống khác là Red Guard và The Red Guard Dance, cả hai đều được thể hiện trên màn ảnh lần lượt bởi ban nhạc The Red Guard Accordion và Các Vũ công The Girls Red Guard, và một phiên bản nhạc giao hưởng đáng yêu của tác phẩm nổi tiếng Emperor Waltz của Strauss.
Một điều không thể không nhắc tới đó là con đường sự nghiệp khác biệt của ba nhà soạn nhạc này sau thành công của The Last Emperor. Sakamoto đã tiếp tục có một sự nghiệp nổi bật và trở thành một trong những nhà sáng tác nhạc phim kiệt xuất, với một vài trong số những tác phẩm nổi tiếng gồm có High Heels, Little Buddha, Snake Eyes, Femme Fatale, Applessed, và The Revenant. Byrne thì lại có sự khác biệt rất lớn khi cho ra mắt thêm nhiều album với Talking Heads, một vài album khác với tư cách nghệ sĩ sol và có đóng góp trong những dự án nghệ thuật khác, bao gồm ba-lê, opera, kịch điện ảnh và một số bộ phim khác gồm có Married to the Mob năm 1988 và Young Adam năm 2003. Trong khi đó, Tô Thông lại chỉ sáng tác nhạc cho thêm hai bộ phim nữa, cả hai đều là của Trung Quốc, trước khi lui về ở ẩn tại một học viện âm nhạc ở Ý.
Bài review gốc được viết bởi Jonathan Broxton
Dịch: phuong
Nhạc phim The Last Emperor – Sự kết hợp không ai ngờ đến
Ngày nay, họ không còn làm ra những thước phim như The Last Emperor (tựa Việt: Hoàng Đế Cuối Cùng) nữa. Một bộ phim cổ trang xa hoa được đạo diễn bởi nhà làm phim vĩ đại người Ý Bernardo Bertolucci, với sự tham gia của các diễn viên Tôn Long, Trần Xung, Peter O’Toole… kể về câu chuyện cuộc đời của Phổ Nghi, vị vua cuối cùng của đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, trước khi Cách mạng Cộng hòa nổ ra vào năm 1911. Câu chuyện được lấy bối cảnh tại thời điểm khi Phổ Nghi đã trưởng thành, là một người tù chính trị của nhà lãnh tụ cộng sản Mao Trạch Đông và nhìn lại cuộc đời mình, bắt đầu từ lúc lên ngôi khi mới 3 tuổi vào năm 1908, tiếp tục tới nửa đầu cuộc đời mình khi ông lớn lên tại Cố Cung ở Bắc Kinh cho tới những biến động sau này dẫn tới việc ông bị truất ngôi, bị trục xuất và cuối cùng bị cầm tù. Đây là một kiệt tác hào hùng, vĩ đại về mặt hình ảnh, cân bằng giữa sự lộng lẫy và giàu có của hoàng cung với câu chuyện cá nhân của một người đàn ông cố gắng lèo lái cuộc đời mình với tư cách một hoàng đế bù nhìn, và cả cái cách ông cân bằng cuộc sống riêng tư với sự nghiệp chính trị và địa vị xã hội của bản thân. Bộ phim từng là một thành công lớn với giới phê bình vào năm 1987, từng đạt 9 giải Oscar bao gồm Phim Hay nhất, Đạo diễn Xuất sắc nhất và Kịch bản Chuyển thể Hay nhất, cùng với các giải thưởng về mặt kĩ thuật gồm có Thiết kế Sản xuất Xuất sắc nhất, Quay phim Xuất sắc nhất, Dựng phim Xuất sắc nhất, Thiết kế Trang phục Đẹp nhất và Nhạc phim Hay nhất.
Phần nhạc phim của The Last Emperor được tạo ra bởi sự kết hợp không ai ngờ đến nhất của bộ ba nhà soạn nhạc: Sakamoto Ryuichi, David Byrne và Tô Thông. Sakamoto là một nhạc sĩ nổi tiếng của dòng nhạc pop tại quê nhà Nhật Bản. Trước đó 3-4 năm, ông từng có tác phẩm nhạc phim đầu tay nhưng phải đến năm 1983, tên tuổi của ông mới được quốc tế biết đến nhờ sáng tác nhạc phim cho Merry Christmas Mr. Lawrence, bộ phim mà ông cũng xuất hiện trong vai nam phụ cùng với David Bowie. Byrne là một ca sĩ kì dị, khác thường của ban nhạc rock phong cách hậu punk tên Talking Heads. Ông trước đó đã đạt được kha khá thành công trên các bản xếp hạng âm nhạc với những ca khúc như Once in a Lifetime vào năm 1981, Burning Down the House năm 1983 và Road to Nowhere năm 1985, nhưng cho đến khi đó không ai biết ông có thể viết nhạc orchestra cho phim. Trong khi đó, Tô Thông lại là một người hoàn toàn vô danh, một chuyên gia nhạc cổ điển của Trung Quốc vừa hoạt động như một nhà soạn nhạc vừa làm giáo viên dạy nhạc ở Bắc Kinh và Đức, nhưng trước đó tuyệt nhiên ông chưa từng có một tác phẩm nhạc phim nào. Việc Bertolucci làm thế nào để đưa ba con người hoàn toàn khác biệt này đến với nhau để cùng soạn ra phần nhạc phim cho The Last Emperor là một bí ẩn, nhưng bằng một cách thần kì nào đó, mọi việc đã diễn ra suôn sẻ; phần nhạc phim mang đậm dấu ấn âm nhạc truyền thống của Đế quốc Trung Hoa, xen lẫn trong đó là một vài yếu tố đương đại.
Đóng góp của Sakamoto cho phần nhạc phim gồm có chín bài tập trung xoay quanh chủ đề chính, một giai điệu đẹp, trữ tình cho cả dàn nhạc, phần cao trào thường được truyền tải bằng tiếng đàn nhị hoặc đàn tranh. Đây là một chủ đề nhẹ nhàng, có chút buồn man mác, có chút nội tâm, nhưng dần dần sôi động lên ở nửa sau nhờ tiếng kèn đồng mạnh mẽ. Hai biến thể của chủ đề cho ta thấy những cách tiếp cận khác nhau với giai điệu; “Biến thể 1” có âm sắc truyền đạo, với sự hòa tấu của đàn tranh và dàn hợp xướng, trong khi đó “Biến thể 2” lại trừu tượng hơn, sở hữu sự kết hợp đặc sắc, nổi bật với Fairlight nhưng vẫn giữ nguyên bản chất thực nghiệm của Sakamoto. Có một điều thú vị không thể bỏ qua đó là một trong những nhà sản xuất và cải biên cho phần âm nhạc của Sakamoto trong album này không phải ai khác mà chính là Hans Zimmer, khi đó vẫn còn là cậu trợ lý 29 tuổi của nhà soạn nhạc Stanley Myers, người một năm sau đó đã viết ra Rain Man.
Những bài khác trong phần đóng góp của Sakamoto có xu hướng đem đến một bức tranh nhỏ về cuộc sống của Phổ Nghi khi làm con rối trong Cố Cung, giúp truyền tải sự lãng mạn cũng như nét uy nghiêm của nơi đây và cả sự tò mò của cậu bé dành cho những điều kì lạ đang xảy ra xung quanh mình. First Coronation là một bản giao hưởng li kì với phần biểu diễn đàn tì bà đặc sắc. Open the Door mang âm điệu lạnh lẽo và bi thương hơn, với những nốt nhạc kịch liệt giúp khán giả cảm nhận rõ sự bất ngờ và kinh hoảng của bé Phổ Nghi khi đứng trước cái chết của cha. Where is Armo? thì ấm áp hơn, với những nốt nhạc đậm sắc cổ điển và phần âm thanh cởi mở. Picking Up Bridges là ca khúc mang âm hưởng cổ đại và đầy gợi mở. Trong khi đó, Rain (I Want a Divorce) kế tục những hòa âm mà Biến thể 2 đem đến cho các ca khúc. The Baby (Was Born Dead) u ám hơn, với phần đàn tì bà và solo piano tạo ra không khí ảm đạm.
Đóng góp của Byrne cho phần nhạc phim gồm có 5 bài, nhưng bài đầu tiên Main Title Theme (The Last Emperor) thực ra lại là nhân tố dễ nhận nhất trong cả album, lí do là bởi bài này được phát ngay trong cảnh mở đầu phim, và được phát làm nhạc nền khi ba nhà soạn nhạc tài ba lên bục nhận giải Oscar từ Patrick Swayze và Jennifer Grey ở Giải thưởng Viện hàn lâm năm 1987. Ca khúc nhạc chủ đề được kết hợp từ một loạt những nhạc cụ truyền thống của Trung Hoa, với phần điệp khúc được thể hiện bằng đàn nhị. Đây là một ca khúc mang đậm chất truyền thống, cổ điển của Trung Hoa, nhưng bản thân nó lại có thể truyền đạt thông điệp tình cảm vô cùng mạnh mẽ giúp kết nối với cả những người phương Tây.
Những bài khác của Byrne hiển nhiên là không xuất sắc bằng ca khúc chủ đề, nhưng không vì thế mà chúng bớt hiệu quả hơn. Điều thú vị là Byrne phụ thuộc vào nhạc cổ điển của Trung Quốc còn nhiều hơn cả Sakamoto, đây là một điều đáng kinh ngạc bởi Byrne sinh ra ở Scotland và lớn lên ở Maryland. Picking a Bride là một ca khúc tinh nghịch, nhịp nhàng, sử dụng đa dạng các loại nhạc cụ truyền thống, đáng chú ý nhất là một phần nhỏ được thể hiện bởi các nhạc cụ làm bằng gỗ, nghe như tiếng đàn xếp phiên bản Trung Quốc vậy. Bed thì trừu tượng hơn, với nhiều âm thanh kim loại mạnh mẽ trên nền âm ngân vang và cuối cùng là tiếng sáo đầy thanh lịch. Wind, Rain and Water một lần nữa đem đến tiếng đàn xếp và có không khí khá vui vẻ trong khi Paper Emperor lại sử dụng nhiều sự kết hợp đến từ Phương Tây hơn với những tiếng kèn đồng và kèn ô-boa mang chút hơi hướng nhạc jazz để truyền đạt sự cay đắng và chán nản.
Đóng góp của Tô Thông cho album nhạc phim này chỉ có đúng một bài là Lunch, nhưng thực ra rất nhiều phần nhạc trong phim đều là của ông. Tô là người chịu trách nhiệm viết toàn bộ các đoạn nhạc cổ Trung Quốc mà khán giả có thể nghe thấy bên trong và xung quanh Cố Cung khi Phổ Nghi còn bé. Đa số nghe đều tương tự như Lunch, đều nhẹ nhàng, yên bình, gần gũi với rất nhiều nhạc cụ dân gian của Trung Quốc, bao gồm sáo dizi, đàn tì bà, đàn tranh, một số nhạc cụ kim loại và đàn nhị. Ngoài ra còn có hai bản nhạc truyền thống khác là Red Guard và The Red Guard Dance, cả hai đều được thể hiện trên màn ảnh lần lượt bởi ban nhạc The Red Guard Accordion và Các Vũ công The Girls Red Guard, và một phiên bản nhạc giao hưởng đáng yêu của tác phẩm nổi tiếng Emperor Waltz của Strauss.
Một điều không thể không nhắc tới đó là con đường sự nghiệp khác biệt của ba nhà soạn nhạc này sau thành công của The Last Emperor. Sakamoto đã tiếp tục có một sự nghiệp nổi bật và trở thành một trong những nhà sáng tác nhạc phim kiệt xuất, với một vài trong số những tác phẩm nổi tiếng gồm có High Heels, Little Buddha, Snake Eyes, Femme Fatale, Applessed, và The Revenant. Byrne thì lại có sự khác biệt rất lớn khi cho ra mắt thêm nhiều album với Talking Heads, một vài album khác với tư cách nghệ sĩ sol và có đóng góp trong những dự án nghệ thuật khác, bao gồm ba-lê, opera, kịch điện ảnh và một số bộ phim khác gồm có Married to the Mob năm 1988 và Young Adam năm 2003. Trong khi đó, Tô Thông lại chỉ sáng tác nhạc cho thêm hai bộ phim nữa, cả hai đều là của Trung Quốc, trước khi lui về ở ẩn tại một học viện âm nhạc ở Ý.
Bài review gốc được viết bởi Jonathan Broxton
Dịch: phuong