Little Forest là một bức tranh xanh mướt và tươi nguyên, tôi tưởng chừng như mình vừa đặt chân đến Komori để được hít căng bụng thứ không khí trong lành vương đầy hơi nước ấy. Sự thanh sạch của nó làm cái nóng xung quanh dường như chẳng còn...
Little Forest là một bức tranh xanh mướt và tươi nguyên, tôi tưởng chừng như mình vừa đặt chân đến Komori để được hít căng bụng thứ không khí trong lành vương đầy hơi nước ấy. Sự thanh sạch của nó làm cái nóng xung quanh dường như chẳng còn hiện diện, chớp mắt là thấy xuân sang, chớp mắt là thấy đông về. Chẳng có bất kì chi tiết hào nhoáng nào, chỉ có sự dung dị của khoảnh khắc giao mùa và cách Ichiko sống bình thản trong ngôi nhà nhỏ được bao quanh bởi khe suối, rừng và những cánh đồng. Cuộc sống chậm rãi và an nhiên ấy thật sự khiến người xem phải ghen tị bởi ở chốn thị thành mình đang sống tìm mãi chẳng thấy hai chữ thanh bình như Komori.
Tôi như bị hút vào con đường xuyên qua cánh rừng ướt sũng sau cơn mưa, đường trơn và kéo dài hun hút trong làn hơi nước trăng trắng; tôi bắt gặp bụi cẩm tú cầu bên vệ khe khẽ run mình trong sự ẩm ướt, cánh đồng xanh màu lúa mới nằm dưới những ngọn núi ẩn mình trong sương. Komori hoang vu nhưng chân chất vị quê nhà. Góc quay chuyển động từ thấp đến cao, từ xa đến gần càng làm cho khung cảnh tươi đẹp ấy hiện rõ hơn trong từng thước phim, có cảm giác mọi thứ đều mang một sự sống căng tràn.
Khi Ichiko xuất hiện trên chiếc xe đạp cũ và trở về nhà với chiếc áo ướt đẫm mồ hôi, tôi vẫn chưa thể nhận ra những gì ẩn chứa bên trong Ichiko. Cảm giác cô độc, nỗi buồn hay đại loại những thứ chán chường khác đều không hề được diễn tả trên gương mặt ấy. Có chăng chỉ là cảm giác chán ghét sự ẩm thấp của căn nhà gỗ vào mùa mưa, những con mòng và cả lũ cỏ dại mọc đầy trên đồng lúa mà cô không thể dẹp yên. Cô bình thản đốt lò để xua đi cảm giác mốc meo của căn nhà rồi sẵn tiện nướng một chiếc bánh mì ăn với mứt dâu. Rõ ràng tôi nhìn thấy ở cô sự hài lòng với hiện tại, nhưng sự thật thì cô đang trốn tránh cuộc sống đầy thị phi ở thành phố và cả nỗi buồn vì mẹ cô đã bỏ đi không nói lý do. Tôi thầm nghĩ phải chăng chính điều đó đã khiến cho cuộc sống ở Komori trở nên kì diệu hơn, bởi nó giống như một liều thuốc chữa lành những vết thương ẩn chứa bên trong một con người?
Từ bỏ tất cả những thứ rực rỡ ở phố thị để trở về vùng quê hẻo lánh và tự biến mình thành một người nông dân thực thụ, bạn có dễ dàng chấp nhận việc đó không? Tôi cam đoan là không, đó không phải là chuyện đơn giản một chút nào. Nhưng với Ichiko thì lại khác, tôi có cảm giác cuộc sống ở Komori mới thực sự dành cho cô, bởi hồi ức trong cô cứ liên tục được tô đâm một lần nữa và những thứ cô học được từ mẹ mình chính là điều tuyệt vời nhất mà cô có được suốt thời thơ ấu. Cũng giống như những người hàng xóm của mình, Ichiko tự trồng trọt, thu hoạch nông sản, chế biến món ăn từ những thứ cô có được trong vụ mùa hoặc tìm được trong khe suối và khu rừng quanh nhà. Cách cô tự nấu ăn và thưởng thức nó từ tốn khiến mọi thứ dường như đi chậm lại vài nhịp, cuộc sống xung quanh chính vì thế mà trở nên rất yên bình. Không có những bon chen, đố kị; không có những lãng phí, xa hoa; mọi thứ được tận dụng triệt để trong bữa ăn mà Ichiko thể hiện. Có phải nỗ lực nấu lại những món ăn thời thơ ấu mà cô được thưởng thức từ mẹ là cách để Ichiko khôi phục lại cảm xúc của bản thân?
Tôi thích việc Ichiko mang rổ vườn cắt một ít cải hay tiện tay hái một quả cà chua rồi ăn ngay tại chỗ, điều đó khiến tôi cảm thấy thèm thuồng khi xung quanh quá nhiều thứ chẳng còn thanh sạch như bản chất của nó. Mọi thứ ở Komori đều mang lại cảm giác sạch sẽ và an toàn. Tôi thích được lắng nghe những công thức nấu ăn của Ichiko, nó thật sự đơn giản, chi tiết và cách làm của cô thì vô cùng tỉ mỉ. Một chiếc bánh mì vàng ươm lấy ra từ lò sưởi, một chén cơm rượu màu trắng sữa ngọt lành, những hủ mứt nhót chua đắng như tình yêu của Ichiko, sốt Worcestershire mà lúc nhỏ cô vẫn tưởng là sáng chế riêng của mẹ mình, rồi còn cả Nutera (socola hạt dẻ) ăn kèm bánh mì nướng khoái khẩu của cô, những cành Mizu tìm thấy bên khe suối chế biến được vô vàn món ăn nhỏ, quả Akebi được Ichiko tận dụng luôn phần vỏ để làm thành nhiều món khác nhau, mứt hạt dẻ được chế biến theo nhiều kiểu có màu đỏ của rượu vang rất đẹp và những quả óc chó cho vào cơm nấu chung ngon tuyệt cú mèo. Tất cả các món ăn được Ichiko chế biến theo dòng hồi ức của mình về mẹ, cô luôn cố gắng để có thể nấu được hương vị như mẹ mình khi xưa. Điều đó khiến tôi có cảm giác mẹ cô vẫn ở đâu đó trong căn nhà gỗ, cùng với cô chế tạo ra những món ăn ngon. Cũng chính nhờ nấu món rau bina xào mà Ichiko đã nhận ra mẹ mình đã dùng rất nhiều tâm sức để nấu ăn cho cô, mẹ cô không hề lười biếng như cô vẫn tưởng. Rốt cuộc thì Ichiko mới thực sự là kẻ lười biếng khi đã không để tâm đến những việc mà mẹ cô đã làm.
Xuân hạ thu đông cứ thế mà trôi qua, Ichiko luôn kiên cường sống và làm việc bằng chính đôi tay của mình. Cô nỗ lực chờ đợi tin tức từ mẹ mình, cũng như tìm thấy những giá trị thực sự của cuộc sống và nhận được lòng tử tế của những người hàng xóm tốt bụng. Hình như Ichiko còn hiểu ra được bài học về sự đối mặt với thực tại từ người bạn Yuuta của mình. Ichiko giống như những cây cà chua vậy, chúng có sức sống vô cùng mạnh mẽ nhưng cũng là loài thực vật rất mỏng manh cần có nhà kính bảo vệ khi gặp cơn mưa dài.
Một kết thúc mơ hồ khi ta vẫn chưa thể trả lời được hai câu hỏi lớn: “Vấn đề thực sự của Ichiko là gì?” và “Bí mật mà mẹ cô che giấu suốt 20 năm có ảnh hưởng gì đến cuộc sống hiện tại của cô?”, nhưng điều đó dường như không còn quan trọng với Ichiko nữa khi cô dần bắt được nhịp với cuộc sống để an yên giữa đời một cách chan hoà. “Khi biết thu xếp mình để sống giữa thiên nhiên, con người cũng tự nhiên an ổn”. Suốt 116 phút của “Little Forest” chỉ có thế, nhưng thứ vương lại trong tâm hồn của người xem sẽ là những điều diệu kỳ nhất. Nhẹ nhàng và từ tốn khiến cõi lòng người xem bớt đi những thứ sân si giữa cuộc đời bon chen, hào nhoáng; thả mình chìm đắm trong sự bình dị và nhẹ nhàng ở Komori.
Văn hóa ẩm thực của Nhật có thể cổ xưa thật đấy, nhưng nỗi ám ảnh của Nhật Bản với đồ ăn trong văn hóa đại chúng thì mới có dạo gần đây thôi. Trào lưu “ăn sang chảnh” (tức gourmet boom, trào lưu đi ăn tại các nhà hàng có tiếng...
Văn hóa ẩm thực của Nhật có thể cổ xưa thật đấy, nhưng nỗi ám ảnh của Nhật Bản với đồ ăn trong văn hóa đại chúng thì mới có dạo gần đây thôi. Trào lưu “ăn sang chảnh” (tức gourmet boom, trào lưu đi ăn tại các nhà hàng có tiếng hoặc ăn các món ăn ngoại quốc) trong “kỷ nguyên bong bóng” vào những năm 80, thời kỳ người Nhật có nhiều tiền và lắm thời gian rảnh hơn để ăn trưa thật kiểu cách hơn là chỉ đơn giản lấp cho đầy chỗ trống trong dạ dày, là cả một sự kích thích vĩ đại. Các bộ truyện tranh, các show truyền hình cũng như các bộ phim lấy đề tài ẩm thực đua nhau sinh sôi nảy nở và không hề có dấu hiệu gián đoạn giữa chừng.
Little Forest: Natsu/ Aki (Khu rừng nhỏ: Hạ/ Thu), 2 phần đầu trong tổng số 4 phần do Junichi Mori làm đạo diễn, kể về một người phụ nữ sống cô độc giữa gia đình của chính mình trong ngôi làng tưởng tượng Komori (dịch theo nghĩa đen chính là Little Forest, tức khu rừng nhỏ) ở Tohoku, đã đưa dòng phim ẩm thực này lên một tầm cao mới.
Được xây dựng dựa trên bộ manga của Daisuke Igarashi, đăng dài kỳ trên tạp chí “Gekkan Afternoon” từ năm 2002 đến 2005, phim ca ngợi một cuộc sống giản đơn – nếu như “giản đơn” chính là tự trồng tự nấu mọi thứ bạn trồng được, từ gạo và cà chua đến những món cầu kỳ (hoặc kỳ dị) như mứt Nutella và sốt Worcestershire tự làm chẳng hạn.
Ichiko, nữ anh hùng của chúng ta (do Hashimoto Ai, ngôi sao của series “Amachan” bên đài NHK thủ vai), không phải kiểu bà-nội-trợ-má-hồng nhổ cỏ trên ruộng lúa đâu. Trên thực tế, đó là một người cô gái trẻ tinh tế và có ý chí mạnh mẽ, sống ở một thành phố lớn cùng với người bạn trai khi ấy của cô. Nhưng dạo đó, cô trở về Komori, thị trấn quê hương, trở về ngôi nhà có người mẹ với bộ óc thực dụng và cái miệng ưa nói lời cay độc, nhưng lại dạy cho cô rất nhiều điều về ẩm thực và cuộc sống. (“Đồ ăn là tấm gương phản chiếu trái tim con”, chính là một trong những châm ngôn “lời vàng ý ngọc” của mẹ.) Người cha không hề được nhắc đến, và phần lớn quá khứ của Ichiko, bao gồm cả mối quan hệ khó hòa hợp giữa cô và mẹ, cũng chỉ hiện lên trong những phân cảnh hồi tưởng có liên quan đến đồ ăn.
Thật vậy, Ichiko không hề làm những món cầu kỳ từ các nguyên liệu sẵn có trong nông trại, nhưng cô vẫn tạo ra được những món ăn vừa bắt mắt vừa ngon miệng từ những lần nấu quấy nấu quá – bắt đầu từ những hạt giống trong vườn.
Điều này nghe như ước mơ thành hiện thực đối với một tín đồ ẩm thực ấy nhỉ. Song, Ichiko là một đầu bếp và một người nông dân chăm chỉ, có hiểu biết và khinh bỉ đường ngang ngõ tắt. Khi một người phụ nữ lớn tuổi hơn bảo cô nên trồng cà chua trong nhà kính để tránh bị ảnh hưởng bởi thời tiết mùa hè thất thường của Tohoku, cô đáp rằng, “Thế thì đơn giản quá.” (Lý do thật sự mà cô nghĩ trong đầu thực ra là, “sở hữu một cái nhà kính sẽ trói chân cháu lại Komori mất”.)
Tuy nhiên, những thất bại thông thường, những tai họa giáng thẳng xuống đầu trong lúc làm nông chỉ có tác động rất nhẹ đến nữ anh hùng của chúng ta; abu (ruồi trâu) đúng là có gây phiền toái cho cô, song lũ côn trùng không có xâu xé những thửa ruộng nói-không-với-thuốc-trừ-sâu của cô; mưa có trút, nhưng không hóa thành bão tàn phá mùa màng. Ngược lại, vai diễn người anh hùng nông dân của Yoshihiro Nakamura trong bộ drama “Kiseki no Ringo” (“Những trái táo kỳ diệu”) phát hành năm 2013 lại bị thất bại và cái đói khốc liệt nện cho tơi tả bao nhiêu năm trời trước khi anh ta làm chủ được kỹ thuật trồng ra những trái táo hữu cơ. Mặc dù rõ ràng là đã cướp đi không ít nước mắt của người xem, song bộ phim của Nakaruma ít nhất cũng đã phản ánh được hiện thực tàn nhẫn trong chủ đề này. Còn phim của Mori thì có hơi khác, toàn là những phân cảnh đẹp như tranh gây ứa nước miếng thôi.
Câu chuyện chính, xuất hiện như những khoảng nghỉ giữa các phân cảnh về đồ ăn, tập trung vào những suy nghĩ phức tạp của Ichiko đối với việc trở lại Komori của mình. Cô tự nhủ, liệu đây có phải là một quyết định đúng đắn, hay chỉ là một cuộc trốn chạy tạm thời thôi? Lôi kéo cô ở lại với ý nghĩ đầu tiên chính là Yuta (Miura Takahiro đóng), một anh chàng có lối nói chuyện cực kỳ thẳng thắn mà cô đã quen biết suốt từ thuở ấu thơ. Cũng là một người trở về như cô, song Yuta hoàn toàn không chút nghi ngờ về lựa chọn của mình. Người làng Komori, anh nói, thường nói về những điều họ biết, không giống như dân thành phố, lúc nào cũng tuôn ra hàng mớ từ ngữ vô nghĩa mà họ chẳng hiểu bao giờ.
“Khi anh rời đi, anh nhận ra rằng anh rất kính trọng con người nơi đây,” Yuta kết luận.
Đối với Ichiko thì chuyện không đơn giản như thế. Cô không chắc là cô sẽ muốn sống một cuộc đời giống như người mẹ, người mà giờ đây đã vắng bóng trong cuộc đời của mình hay không.
Thế rồi cô nhận được một lá thư từ mẹ, nhưng cuộc đoàn tụ của mẹ và con gái, cũng như mùa đông và mùa xuân của Ichiko ở Komori, vẫn chưa được bật mí trong hai phần phim này. Phải chờ đến ngày 14 tháng Hai sang năm mới biết được. (Tôi hy vọng là cô ấy không vạch rõ ranh giới với mẹ và chuyển tới Roppongi.)
Ngoài ra, có rất nhiều điều có thể học được từ “Little Forest” về chuyện trồng lúa, làm mứt, thậm chí là cắt tiết vịt qua lời trần thuật chậm rãi, từng bước từng bước một của Ichiko. Là một drama, “Little Forest” cũng không đi quá sâu, nhưng với tư cách một video hướng dẫn, với những cảnh quay từ chuẩn bị đến chế biến thực phẩm dưới sự chỉ đạo của Yuri Nomura, nhà làm phim tài liệu và chủ sở hữu nhà hàng Eatrip, thì bộ phim này vừa hữu ích lại vừa đầy cảm hứng.
Tuy nhiên, cá nhân tôi không bị cuốn theo việc “bám càng” từng bước đi của Ichiko. Thay vào đó, tôi nhớ về ông tôi, người lớn lên trong một trang trại nhỏ ở vùng đồi núi Noble County, Ohio với chín người anh chị em khác. Ông đã săn bắn và gieo trồng đủ thứ trên đời, từ chim cun cút đến ngô ngọt. “Người ta có thể tách cậu con trai khỏi ruộng đồng, nhưng không thể tách ruộng đồng ra khỏi cậu ta được,” ông tôi đã từng nói vậy. Nhưng, hơn cả việc quay về với vùng đất của tổ tiên, ông lại làm việc trong xưởng thép của địa phương. Không muốn chết đói thì phải vậy thôi.
Ru lòng an yên ở Komori
Little Forest là một bức tranh xanh mướt và tươi nguyên, tôi tưởng chừng như mình vừa đặt chân đến Komori để được hít căng bụng thứ không khí trong lành vương đầy hơi nước ấy. Sự thanh sạch của nó làm cái nóng xung quanh dường như chẳng còn hiện diện, chớp mắt là thấy xuân sang, chớp mắt là thấy đông về. Chẳng có bất kì chi tiết hào nhoáng nào, chỉ có sự dung dị của khoảnh khắc giao mùa và cách Ichiko sống bình thản trong ngôi nhà nhỏ được bao quanh bởi khe suối, rừng và những cánh đồng. Cuộc sống chậm rãi và an nhiên ấy thật sự khiến người xem phải ghen tị bởi ở chốn thị thành mình đang sống tìm mãi chẳng thấy hai chữ thanh bình như Komori.
Tôi như bị hút vào con đường xuyên qua cánh rừng ướt sũng sau cơn mưa, đường trơn và kéo dài hun hút trong làn hơi nước trăng trắng; tôi bắt gặp bụi cẩm tú cầu bên vệ khe khẽ run mình trong sự ẩm ướt, cánh đồng xanh màu lúa mới nằm dưới những ngọn núi ẩn mình trong sương. Komori hoang vu nhưng chân chất vị quê nhà. Góc quay chuyển động từ thấp đến cao, từ xa đến gần càng làm cho khung cảnh tươi đẹp ấy hiện rõ hơn trong từng thước phim, có cảm giác mọi thứ đều mang một sự sống căng tràn.
Khi Ichiko xuất hiện trên chiếc xe đạp cũ và trở về nhà với chiếc áo ướt đẫm mồ hôi, tôi vẫn chưa thể nhận ra những gì ẩn chứa bên trong Ichiko. Cảm giác cô độc, nỗi buồn hay đại loại những thứ chán chường khác đều không hề được diễn tả trên gương mặt ấy. Có chăng chỉ là cảm giác chán ghét sự ẩm thấp của căn nhà gỗ vào mùa mưa, những con mòng và cả lũ cỏ dại mọc đầy trên đồng lúa mà cô không thể dẹp yên. Cô bình thản đốt lò để xua đi cảm giác mốc meo của căn nhà rồi sẵn tiện nướng một chiếc bánh mì ăn với mứt dâu. Rõ ràng tôi nhìn thấy ở cô sự hài lòng với hiện tại, nhưng sự thật thì cô đang trốn tránh cuộc sống đầy thị phi ở thành phố và cả nỗi buồn vì mẹ cô đã bỏ đi không nói lý do. Tôi thầm nghĩ phải chăng chính điều đó đã khiến cho cuộc sống ở Komori trở nên kì diệu hơn, bởi nó giống như một liều thuốc chữa lành những vết thương ẩn chứa bên trong một con người?
Từ bỏ tất cả những thứ rực rỡ ở phố thị để trở về vùng quê hẻo lánh và tự biến mình thành một người nông dân thực thụ, bạn có dễ dàng chấp nhận việc đó không? Tôi cam đoan là không, đó không phải là chuyện đơn giản một chút nào. Nhưng với Ichiko thì lại khác, tôi có cảm giác cuộc sống ở Komori mới thực sự dành cho cô, bởi hồi ức trong cô cứ liên tục được tô đâm một lần nữa và những thứ cô học được từ mẹ mình chính là điều tuyệt vời nhất mà cô có được suốt thời thơ ấu. Cũng giống như những người hàng xóm của mình, Ichiko tự trồng trọt, thu hoạch nông sản, chế biến món ăn từ những thứ cô có được trong vụ mùa hoặc tìm được trong khe suối và khu rừng quanh nhà. Cách cô tự nấu ăn và thưởng thức nó từ tốn khiến mọi thứ dường như đi chậm lại vài nhịp, cuộc sống xung quanh chính vì thế mà trở nên rất yên bình. Không có những bon chen, đố kị; không có những lãng phí, xa hoa; mọi thứ được tận dụng triệt để trong bữa ăn mà Ichiko thể hiện. Có phải nỗ lực nấu lại những món ăn thời thơ ấu mà cô được thưởng thức từ mẹ là cách để Ichiko khôi phục lại cảm xúc của bản thân?
Tôi thích việc Ichiko mang rổ vườn cắt một ít cải hay tiện tay hái một quả cà chua rồi ăn ngay tại chỗ, điều đó khiến tôi cảm thấy thèm thuồng khi xung quanh quá nhiều thứ chẳng còn thanh sạch như bản chất của nó. Mọi thứ ở Komori đều mang lại cảm giác sạch sẽ và an toàn. Tôi thích được lắng nghe những công thức nấu ăn của Ichiko, nó thật sự đơn giản, chi tiết và cách làm của cô thì vô cùng tỉ mỉ. Một chiếc bánh mì vàng ươm lấy ra từ lò sưởi, một chén cơm rượu màu trắng sữa ngọt lành, những hủ mứt nhót chua đắng như tình yêu của Ichiko, sốt Worcestershire mà lúc nhỏ cô vẫn tưởng là sáng chế riêng của mẹ mình, rồi còn cả Nutera (socola hạt dẻ) ăn kèm bánh mì nướng khoái khẩu của cô, những cành Mizu tìm thấy bên khe suối chế biến được vô vàn món ăn nhỏ, quả Akebi được Ichiko tận dụng luôn phần vỏ để làm thành nhiều món khác nhau, mứt hạt dẻ được chế biến theo nhiều kiểu có màu đỏ của rượu vang rất đẹp và những quả óc chó cho vào cơm nấu chung ngon tuyệt cú mèo. Tất cả các món ăn được Ichiko chế biến theo dòng hồi ức của mình về mẹ, cô luôn cố gắng để có thể nấu được hương vị như mẹ mình khi xưa. Điều đó khiến tôi có cảm giác mẹ cô vẫn ở đâu đó trong căn nhà gỗ, cùng với cô chế tạo ra những món ăn ngon. Cũng chính nhờ nấu món rau bina xào mà Ichiko đã nhận ra mẹ mình đã dùng rất nhiều tâm sức để nấu ăn cho cô, mẹ cô không hề lười biếng như cô vẫn tưởng. Rốt cuộc thì Ichiko mới thực sự là kẻ lười biếng khi đã không để tâm đến những việc mà mẹ cô đã làm.
Xuân hạ thu đông cứ thế mà trôi qua, Ichiko luôn kiên cường sống và làm việc bằng chính đôi tay của mình. Cô nỗ lực chờ đợi tin tức từ mẹ mình, cũng như tìm thấy những giá trị thực sự của cuộc sống và nhận được lòng tử tế của những người hàng xóm tốt bụng. Hình như Ichiko còn hiểu ra được bài học về sự đối mặt với thực tại từ người bạn Yuuta của mình. Ichiko giống như những cây cà chua vậy, chúng có sức sống vô cùng mạnh mẽ nhưng cũng là loài thực vật rất mỏng manh cần có nhà kính bảo vệ khi gặp cơn mưa dài.
Một kết thúc mơ hồ khi ta vẫn chưa thể trả lời được hai câu hỏi lớn: “Vấn đề thực sự của Ichiko là gì?” và “Bí mật mà mẹ cô che giấu suốt 20 năm có ảnh hưởng gì đến cuộc sống hiện tại của cô?”, nhưng điều đó dường như không còn quan trọng với Ichiko nữa khi cô dần bắt được nhịp với cuộc sống để an yên giữa đời một cách chan hoà. “Khi biết thu xếp mình để sống giữa thiên nhiên, con người cũng tự nhiên an ổn”. Suốt 116 phút của “Little Forest” chỉ có thế, nhưng thứ vương lại trong tâm hồn của người xem sẽ là những điều diệu kỳ nhất. Nhẹ nhàng và từ tốn khiến cõi lòng người xem bớt đi những thứ sân si giữa cuộc đời bon chen, hào nhoáng; thả mình chìm đắm trong sự bình dị và nhẹ nhàng ở Komori.
Ru lòng phàm an yên.
Little Forest: Natsu/ Aki (Khu rừng nhỏ: Hạ/ Thu)
Văn hóa ẩm thực của Nhật có thể cổ xưa thật đấy, nhưng nỗi ám ảnh của Nhật Bản với đồ ăn trong văn hóa đại chúng thì mới có dạo gần đây thôi. Trào lưu “ăn sang chảnh” (tức gourmet boom, trào lưu đi ăn tại các nhà hàng có tiếng hoặc ăn các món ăn ngoại quốc) trong “kỷ nguyên bong bóng” vào những năm 80, thời kỳ người Nhật có nhiều tiền và lắm thời gian rảnh hơn để ăn trưa thật kiểu cách hơn là chỉ đơn giản lấp cho đầy chỗ trống trong dạ dày, là cả một sự kích thích vĩ đại. Các bộ truyện tranh, các show truyền hình cũng như các bộ phim lấy đề tài ẩm thực đua nhau sinh sôi nảy nở và không hề có dấu hiệu gián đoạn giữa chừng.
Little Forest: Natsu/ Aki (Khu rừng nhỏ: Hạ/ Thu), 2 phần đầu trong tổng số 4 phần do Junichi Mori làm đạo diễn, kể về một người phụ nữ sống cô độc giữa gia đình của chính mình trong ngôi làng tưởng tượng Komori (dịch theo nghĩa đen chính là Little Forest, tức khu rừng nhỏ) ở Tohoku, đã đưa dòng phim ẩm thực này lên một tầm cao mới.
Được xây dựng dựa trên bộ manga của Daisuke Igarashi, đăng dài kỳ trên tạp chí “Gekkan Afternoon” từ năm 2002 đến 2005, phim ca ngợi một cuộc sống giản đơn – nếu như “giản đơn” chính là tự trồng tự nấu mọi thứ bạn trồng được, từ gạo và cà chua đến những món cầu kỳ (hoặc kỳ dị) như mứt Nutella và sốt Worcestershire tự làm chẳng hạn.
Ichiko, nữ anh hùng của chúng ta (do Hashimoto Ai, ngôi sao của series “Amachan” bên đài NHK thủ vai), không phải kiểu bà-nội-trợ-má-hồng nhổ cỏ trên ruộng lúa đâu. Trên thực tế, đó là một người cô gái trẻ tinh tế và có ý chí mạnh mẽ, sống ở một thành phố lớn cùng với người bạn trai khi ấy của cô. Nhưng dạo đó, cô trở về Komori, thị trấn quê hương, trở về ngôi nhà có người mẹ với bộ óc thực dụng và cái miệng ưa nói lời cay độc, nhưng lại dạy cho cô rất nhiều điều về ẩm thực và cuộc sống. (“Đồ ăn là tấm gương phản chiếu trái tim con”, chính là một trong những châm ngôn “lời vàng ý ngọc” của mẹ.) Người cha không hề được nhắc đến, và phần lớn quá khứ của Ichiko, bao gồm cả mối quan hệ khó hòa hợp giữa cô và mẹ, cũng chỉ hiện lên trong những phân cảnh hồi tưởng có liên quan đến đồ ăn.
Thật vậy, Ichiko không hề làm những món cầu kỳ từ các nguyên liệu sẵn có trong nông trại, nhưng cô vẫn tạo ra được những món ăn vừa bắt mắt vừa ngon miệng từ những lần nấu quấy nấu quá – bắt đầu từ những hạt giống trong vườn.
Điều này nghe như ước mơ thành hiện thực đối với một tín đồ ẩm thực ấy nhỉ. Song, Ichiko là một đầu bếp và một người nông dân chăm chỉ, có hiểu biết và khinh bỉ đường ngang ngõ tắt. Khi một người phụ nữ lớn tuổi hơn bảo cô nên trồng cà chua trong nhà kính để tránh bị ảnh hưởng bởi thời tiết mùa hè thất thường của Tohoku, cô đáp rằng, “Thế thì đơn giản quá.” (Lý do thật sự mà cô nghĩ trong đầu thực ra là, “sở hữu một cái nhà kính sẽ trói chân cháu lại Komori mất”.)
Tuy nhiên, những thất bại thông thường, những tai họa giáng thẳng xuống đầu trong lúc làm nông chỉ có tác động rất nhẹ đến nữ anh hùng của chúng ta; abu (ruồi trâu) đúng là có gây phiền toái cho cô, song lũ côn trùng không có xâu xé những thửa ruộng nói-không-với-thuốc-trừ-sâu của cô; mưa có trút, nhưng không hóa thành bão tàn phá mùa màng. Ngược lại, vai diễn người anh hùng nông dân của Yoshihiro Nakamura trong bộ drama “Kiseki no Ringo” (“Những trái táo kỳ diệu”) phát hành năm 2013 lại bị thất bại và cái đói khốc liệt nện cho tơi tả bao nhiêu năm trời trước khi anh ta làm chủ được kỹ thuật trồng ra những trái táo hữu cơ. Mặc dù rõ ràng là đã cướp đi không ít nước mắt của người xem, song bộ phim của Nakaruma ít nhất cũng đã phản ánh được hiện thực tàn nhẫn trong chủ đề này. Còn phim của Mori thì có hơi khác, toàn là những phân cảnh đẹp như tranh gây ứa nước miếng thôi.
Câu chuyện chính, xuất hiện như những khoảng nghỉ giữa các phân cảnh về đồ ăn, tập trung vào những suy nghĩ phức tạp của Ichiko đối với việc trở lại Komori của mình. Cô tự nhủ, liệu đây có phải là một quyết định đúng đắn, hay chỉ là một cuộc trốn chạy tạm thời thôi? Lôi kéo cô ở lại với ý nghĩ đầu tiên chính là Yuta (Miura Takahiro đóng), một anh chàng có lối nói chuyện cực kỳ thẳng thắn mà cô đã quen biết suốt từ thuở ấu thơ. Cũng là một người trở về như cô, song Yuta hoàn toàn không chút nghi ngờ về lựa chọn của mình. Người làng Komori, anh nói, thường nói về những điều họ biết, không giống như dân thành phố, lúc nào cũng tuôn ra hàng mớ từ ngữ vô nghĩa mà họ chẳng hiểu bao giờ.
“Khi anh rời đi, anh nhận ra rằng anh rất kính trọng con người nơi đây,” Yuta kết luận.
Đối với Ichiko thì chuyện không đơn giản như thế. Cô không chắc là cô sẽ muốn sống một cuộc đời giống như người mẹ, người mà giờ đây đã vắng bóng trong cuộc đời của mình hay không.
Thế rồi cô nhận được một lá thư từ mẹ, nhưng cuộc đoàn tụ của mẹ và con gái, cũng như mùa đông và mùa xuân của Ichiko ở Komori, vẫn chưa được bật mí trong hai phần phim này. Phải chờ đến ngày 14 tháng Hai sang năm mới biết được. (Tôi hy vọng là cô ấy không vạch rõ ranh giới với mẹ và chuyển tới Roppongi.)
Ngoài ra, có rất nhiều điều có thể học được từ “Little Forest” về chuyện trồng lúa, làm mứt, thậm chí là cắt tiết vịt qua lời trần thuật chậm rãi, từng bước từng bước một của Ichiko. Là một drama, “Little Forest” cũng không đi quá sâu, nhưng với tư cách một video hướng dẫn, với những cảnh quay từ chuẩn bị đến chế biến thực phẩm dưới sự chỉ đạo của Yuri Nomura, nhà làm phim tài liệu và chủ sở hữu nhà hàng Eatrip, thì bộ phim này vừa hữu ích lại vừa đầy cảm hứng.
Tuy nhiên, cá nhân tôi không bị cuốn theo việc “bám càng” từng bước đi của Ichiko. Thay vào đó, tôi nhớ về ông tôi, người lớn lên trong một trang trại nhỏ ở vùng đồi núi Noble County, Ohio với chín người anh chị em khác. Ông đã săn bắn và gieo trồng đủ thứ trên đời, từ chim cun cút đến ngô ngọt. “Người ta có thể tách cậu con trai khỏi ruộng đồng, nhưng không thể tách ruộng đồng ra khỏi cậu ta được,” ông tôi đã từng nói vậy. Nhưng, hơn cả việc quay về với vùng đất của tổ tiên, ông lại làm việc trong xưởng thép của địa phương. Không muốn chết đói thì phải vậy thôi.
(MER dịch từ review của Mark Schilling)