Fune wo Amu - Người đan chữ xếp thuyền là bộ phim nói nhiều về những con chữ, những người xếp đặt những con chữ và cho chúng ta thêm những tri thức, hiểu biết về những con chữ. Thế nhưng cả bộ phim trừ anh chàng Nishioka vui nhộn và lắm lời – một cách dễ thương, thì một cách
Fune wo Amu - Người đan chữ xếp thuyền là bộ phim nói nhiều về những con chữ, những người xếp đặt những con chữ và cho chúng ta thêm những tri thức, hiểu biết về những con chữ. Thế nhưng cả bộ phim trừ anh chàng Nishioka vui nhộn và lắm lời – một cách dễ thương, thì một cách ngược ngạo, hầu như mọi người đều rất kiệm lời kiệm chữ. Phim không nhiều lời thoại nhưng lại nhiều khoảng lặng, không nhiều tình tiết gây sốt hay cảnh quay Hot nhưng lại luôn sâu lắng.
Nếu như để tóm tắt thì đơn giản là phim nói về việc làm ra một quyển tự điển có tên là Daitokai. Nó mang trong lòng bao nhiêu tâm huyết và cả đam mê của những con người đã bỏ cả cuộc đời ra chỉ để hoàn thành một công việc. Bằng việc khắc hoạchân dung nhân vật chính – Majime-san, mạch phim bắt đầu từ một anh chàng trẻ tuổi mê chữ và tình cờ được chuyển sang bộ phận từ điển, từng bước một đã cùng ăn - ngủ - sống với những từ những chữ ấy, cho đến con đường thật dài liên tục 13 năm sau đó phải vừa chật vật duy trì những thể loại từ điển “thị trường” để đáp ứng sự sinh tồn – kinh phí cho bộ phận soạn từ điển, vừa nuôi dưỡng tình yêu từ ngữ với Daitokai-chiếc thuyền chở những con chữ ra biển lớn đến với mọi người. Phim kết thúc khi Daitokai được xuất bản, không ai biết được quyển từ điển đó thành công hay thất bại, sẽ bán được nhiều hay ít, Majime và những người bạn – người thân sẽ ra sao sau đó. Nhưng một lần nữa tôi có dịp nhắc lại với bản thân mình về bài học mà tôi đã thuộc từ lâu nhưng thường hay lãng quên: Mọi việc trên đời này, kết quả không quan trọng bằng quá trình.
Nói về cảm xúc của mình, theo tôi đây là một bộ phim ĐẸP. Những thước phim và góc cảnh quay đẹp. Những lời thoại được viết rất đẹp. Những từ ngữ đại diện được nhắc đến trong phim cũng đẹp. Và trên tất thảy, đó là những diễn viên hoá thân vào những nhân vật có tâm hồn đẹp. Một Majime khù khờ vụng dạinhưng từng ngày một đã mạnh mẽ dũng cảm hơn nhờ tình yêu với người vợ và với những con chữ. Một Kaguya thầm lặng bên cạnh hết mực chăm lo và yêu thương chồng, ủng hộ đam mê của chồng như một hậu phương vững chắc. Một bác Akari đã dành 38 năm cả cuộc đời đi làm cho bộ phận soạn từ điển và thêm nhiều năm sau khi vợ mất để quay lại đồng hành cùng Majime cho tới ngày Daitokai được xuất bản. Một Nishioka tưởng chẳng liên quan gì và sẽ bỏ cuộc sớm với cái gọi là từ điển, nhưng đã được truyền cảm hứng từ Majime và việc hỗ trợ cho Daitokai đi được đến cùng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống suốt mười mấy năm của anh. Một bác giáo sư Matsumoto đã cống hiến cả đời để nghiên cứu về từ điển và đến những ngày cuối cùng nằm trên giường bệnh vẫn không nguôi khắc khoải về Daitokai. Và còn cả người vợ của giáo sư Matsumoto, bà Take chủ nhà,cô gái đồng nghiệp chuyển từ bộ phận thời trang qua, vợ của Nishioka, những người cộng sự không tên sau này khi Daitokai cần in nháp và kiểm tra 5 lần trước khi được xuất bản... Tất cả những điều đó, chẳng phải là quá ĐẸP từ hình thức cho đến nội dung hay sao?
Và, dù đã nhiều năm học và làm việc với tiếng Nhật, nhưng nhờ tiếp cận bộ phim này mà tôi mới thêm hiểu có những cách định nghĩa khác về những từ rất đơn giản, là cách định nghĩa cho bạn nhớ lâu một cách thú vị chứ không khô khan một cách bài bản máy móc. Tôi còn nhớ khi bị cả phòng ban của mình phát hiện việc thầm thương trộm nhớ một cô gái, giáo sư Matsumoto đã giao cho Majime viết định nghĩa cho từ “Yêu”. Có lẽ, đây là khởi nguồn cho mọi sự bắt đầu, anh Majime đang học cách yêu, học cách viết từ yêu bằng những cảm xúc thực tế của bản thân. Nếu không biết yêu là loại cảm xúc gì, chắc hẳn anh đã không thể yêu vợ của mình sau này -Kaguya – và yêu đến tận cùng công việc của mình được. Hay như cách định nghĩa về “migi” – “hidari” (bên phải – bên trái) của giáo sư Matsumoto đáng kính: trong số 10 thì số 0 nằm ở bên phải. Quả thật, tại sao lại là ví dụ về số 10? Tôi đã nghĩ suy mất vài phút về ví dụ này, có phải chăng khi đi học được thầy cô cho chúng ta 10d là điểm số cao nhất? Hay cả trong tiếng Nhật cũng có từ “10 phần” (jyuu-bun) ý chỉ sự trọn vẹn, sự đủ đầy khi ta làm bất cứ điều gì đó? Điều này tuỳ thuộc vào cách cảm nhận của người xem, nhưng quy tụ lại, Daitokai đã được góp nhặt lại từ mỗi con chữ thi vị và rất riêng như thế.
Với tôi, bộ phim như một bài ca đẹp ca ngợi ý chí và đam mê, ca ngợi những con người làm việc có tâm huyết và có trách nhiệm, ca ngợi tinh thần đoàn kết và ý chí bất khuất của người Nhật – những người thường được cả thế giới trao tặng lời khen “Người Nhật chỉ cần họ muốn là họ sẽ làm được”. Nếu như để tìm một bộ phim có thể truyền cảm hứng cho bản thân, từ nay tôi sẽ không ngần ngại giới thiệu với bạn bè và người thân của mình về Fune wo Amu! Cảm ơn nhiều lắm vì bộ phim đã tiếp thêm cho tôi lửa lòng để yêu thêm tiếng Nhật, để đủ sức mạnh tin tưởng và đi tiếp, để dấn thân trên bước đường sắp tới của mình nếu có thể trở lại mảnh đất khách quê người này, nơi còn nhiều điều mà người Việt Nam mình còn thiếu và cần học hỏi.
Một bài ca thật đẹp
Fune wo Amu - Người đan chữ xếp thuyền là bộ phim nói nhiều về những con chữ, những người xếp đặt những con chữ và cho chúng ta thêm những tri thức, hiểu biết về những con chữ. Thế nhưng cả bộ phim trừ anh chàng Nishioka vui nhộn và lắm lời – một cách dễ thương, thì một cách ngược ngạo, hầu như mọi người đều rất kiệm lời kiệm chữ. Phim không nhiều lời thoại nhưng lại nhiều khoảng lặng, không nhiều tình tiết gây sốt hay cảnh quay Hot nhưng lại luôn sâu lắng.
Nếu như để tóm tắt thì đơn giản là phim nói về việc làm ra một quyển tự điển có tên là Daitokai. Nó mang trong lòng bao nhiêu tâm huyết và cả đam mê của những con người đã bỏ cả cuộc đời ra chỉ để hoàn thành một công việc. Bằng việc khắc hoạchân dung nhân vật chính – Majime-san, mạch phim bắt đầu từ một anh chàng trẻ tuổi mê chữ và tình cờ được chuyển sang bộ phận từ điển, từng bước một đã cùng ăn - ngủ - sống với những từ những chữ ấy, cho đến con đường thật dài liên tục 13 năm sau đó phải vừa chật vật duy trì những thể loại từ điển “thị trường” để đáp ứng sự sinh tồn – kinh phí cho bộ phận soạn từ điển, vừa nuôi dưỡng tình yêu từ ngữ với Daitokai-chiếc thuyền chở những con chữ ra biển lớn đến với mọi người. Phim kết thúc khi Daitokai được xuất bản, không ai biết được quyển từ điển đó thành công hay thất bại, sẽ bán được nhiều hay ít, Majime và những người bạn – người thân sẽ ra sao sau đó. Nhưng một lần nữa tôi có dịp nhắc lại với bản thân mình về bài học mà tôi đã thuộc từ lâu nhưng thường hay lãng quên: Mọi việc trên đời này, kết quả không quan trọng bằng quá trình.
Nói về cảm xúc của mình, theo tôi đây là một bộ phim ĐẸP. Những thước phim và góc cảnh quay đẹp. Những lời thoại được viết rất đẹp. Những từ ngữ đại diện được nhắc đến trong phim cũng đẹp. Và trên tất thảy, đó là những diễn viên hoá thân vào những nhân vật có tâm hồn đẹp. Một Majime khù khờ vụng dạinhưng từng ngày một đã mạnh mẽ dũng cảm hơn nhờ tình yêu với người vợ và với những con chữ. Một Kaguya thầm lặng bên cạnh hết mực chăm lo và yêu thương chồng, ủng hộ đam mê của chồng như một hậu phương vững chắc. Một bác Akari đã dành 38 năm cả cuộc đời đi làm cho bộ phận soạn từ điển và thêm nhiều năm sau khi vợ mất để quay lại đồng hành cùng Majime cho tới ngày Daitokai được xuất bản. Một Nishioka tưởng chẳng liên quan gì và sẽ bỏ cuộc sớm với cái gọi là từ điển, nhưng đã được truyền cảm hứng từ Majime và việc hỗ trợ cho Daitokai đi được đến cùng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống suốt mười mấy năm của anh. Một bác giáo sư Matsumoto đã cống hiến cả đời để nghiên cứu về từ điển và đến những ngày cuối cùng nằm trên giường bệnh vẫn không nguôi khắc khoải về Daitokai. Và còn cả người vợ của giáo sư Matsumoto, bà Take chủ nhà,cô gái đồng nghiệp chuyển từ bộ phận thời trang qua, vợ của Nishioka, những người cộng sự không tên sau này khi Daitokai cần in nháp và kiểm tra 5 lần trước khi được xuất bản... Tất cả những điều đó, chẳng phải là quá ĐẸP từ hình thức cho đến nội dung hay sao?
Và, dù đã nhiều năm học và làm việc với tiếng Nhật, nhưng nhờ tiếp cận bộ phim này mà tôi mới thêm hiểu có những cách định nghĩa khác về những từ rất đơn giản, là cách định nghĩa cho bạn nhớ lâu một cách thú vị chứ không khô khan một cách bài bản máy móc. Tôi còn nhớ khi bị cả phòng ban của mình phát hiện việc thầm thương trộm nhớ một cô gái, giáo sư Matsumoto đã giao cho Majime viết định nghĩa cho từ “Yêu”. Có lẽ, đây là khởi nguồn cho mọi sự bắt đầu, anh Majime đang học cách yêu, học cách viết từ yêu bằng những cảm xúc thực tế của bản thân. Nếu không biết yêu là loại cảm xúc gì, chắc hẳn anh đã không thể yêu vợ của mình sau này -Kaguya – và yêu đến tận cùng công việc của mình được. Hay như cách định nghĩa về “migi” – “hidari” (bên phải – bên trái) của giáo sư Matsumoto đáng kính: trong số 10 thì số 0 nằm ở bên phải. Quả thật, tại sao lại là ví dụ về số 10? Tôi đã nghĩ suy mất vài phút về ví dụ này, có phải chăng khi đi học được thầy cô cho chúng ta 10d là điểm số cao nhất? Hay cả trong tiếng Nhật cũng có từ “10 phần” (jyuu-bun) ý chỉ sự trọn vẹn, sự đủ đầy khi ta làm bất cứ điều gì đó? Điều này tuỳ thuộc vào cách cảm nhận của người xem, nhưng quy tụ lại, Daitokai đã được góp nhặt lại từ mỗi con chữ thi vị và rất riêng như thế.
Với tôi, bộ phim như một bài ca đẹp ca ngợi ý chí và đam mê, ca ngợi những con người làm việc có tâm huyết và có trách nhiệm, ca ngợi tinh thần đoàn kết và ý chí bất khuất của người Nhật – những người thường được cả thế giới trao tặng lời khen “Người Nhật chỉ cần họ muốn là họ sẽ làm được”. Nếu như để tìm một bộ phim có thể truyền cảm hứng cho bản thân, từ nay tôi sẽ không ngần ngại giới thiệu với bạn bè và người thân của mình về Fune wo Amu! Cảm ơn nhiều lắm vì bộ phim đã tiếp thêm cho tôi lửa lòng để yêu thêm tiếng Nhật, để đủ sức mạnh tin tưởng và đi tiếp, để dấn thân trên bước đường sắp tới của mình nếu có thể trở lại mảnh đất khách quê người này, nơi còn nhiều điều mà người Việt Nam mình còn thiếu và cần học hỏi.
Ngân Trần